Có lẽ, chính vì theo vua đi trận nhiều, nên thơ biên tái (biên ải) của ông rất hay. Ông viết ở Tân Cương, Cam Túc , Thiểm Tây - những vùng biên viễn xa xôi - ca tụng tinh thần anh dũng của chiến sĩ biên phòng, miêu tả những phong cảnh lạ lùng, hùng tráng ở những nơi "đèo heo hút gió", "cát bay đá chạy", "tuyết phủ mây che", tiêu biểu là những bài "Bài hành sông Tẩu Mã...", "Bài ca tuyết trắng...", "Viết trong sa mạc"... "Viết trong sa mạc" (Thích trung du lịch đà nẵng tác) giới thiệu ở đây là một bài thể tuyệt cú, ngắn gọn nhưng cũng tiêu biểu cho phong cách thơ ông: Thích trung tác Tẩu mã tây lai dục đáo thiên Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên Kim dạ bất tri hà xứ túc Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên. SẦM THAM Dịch nghĩa Ở trong sa mạc cảm tác Giục ngựa chạy về phía Tây, muốn đến tận chân trời/ Rời nhà ra đi, đã thấy trăng hai lần tròn/ Đêm nay không biết ngủ ở đâu/ Trên sa mạc muôn dặm, tuyệt không thấy bóng người và khói bếp. Dịch thơ Viết trong sa mạc Lên yên định đến cuối trời tây Trăng tròn hai bận soi dặm dài Đêm nay biết ngủ nơi nào được? Chỉ cát. Không người. Không khói bay! Viết trong sa mạc (Thể lục bát) Ôm yên giục ngựa mỏi mòn Trên đầu hai bận trăng tròn trời tây Ngủ đâu trong cát đêm nay? Không người. Không khói bếp bay quanh mình! Cưỡi ngựa đi về tây, đã hai tháng trời rồi xa nhà, khách sạn đà nẵng đêm nay, vạn dặm quanh mình chỉ thấy cát, không bóng người, không khói bếp bay, biết ngủ ở đâu bây giờ? Cảnh rất cụ thể, lời cũng không "ý tại ngôn ngoại" gì lắm, nhưng nỗi nhớ nhà, cảnh cô đơn, thân vất vả, thế "tiến thoái lưỡng nan" du lịch đà nẵng của người "đi về phía tây", đến nơi biên viễn vùng Hồi - Khương, thì rõ như lòng tay. Chỉ 4 câu thơ ngắn mà "thương hiệu" Sầm Tham đã hé lộ. Thơ ấy đáng gọi là thơ hay. Người viết thơ ấy đáng gọi là cao thủ. Nhân đây, có lẽ nên đọc thêm một bài nữa của Sầm Tham, để "thương hiệu" biên tái của ông thêm đậm đà: TẨU Mà XUYÊN HÀNH PHỤNG TỐNG PHONG ĐẠI PHU XUẤT SƯ TÂY CHINH Quân bất kiến: Tẩu Mã xuyên hành tuyết hải biên Bình sa mãng mãng hoàng nhập thiên Luân Đài cửu nguyệt phong dạ hống Nhất xuyên toái thạch đại như đẩu Tùy phong mãn địa thạch loạn tẩu Hung Nô thảo hoàng mã chính phì Kim Sơn tây kiến yên trần phi Hán gia đại tướng tây xuất sư Tướng quân kim giáp dạ bất thoát Bán dạ quân hành qua tương bát Phong đầu như đao, diện như cát Mã mao đái tuyết hãn khí chưng Ngũ hoa liên tiền tuyền tác băng Mạc trung thảo hịch nghiễn thủy ngưng Lỗ kỵ văn chi ưng đởm nhiếp Liệu chi đoản binh bất cảm tiếp Xa sư tây môn trữ hiến tiệp. Dịch nghĩa BÀI HÀNH “SÔNG TẨU MÔ(1) PHỤNG MỆNH VUA, VIẾT TIỄN ĐẠI PHU HỌ PHONG (2) XUẤT QUÂN ĐÁNH GIẶC PHÍA TÂY Người không thấy: Sông Tẩu Mã chảy quanh bể tuyết/ Sa khách sạn đà nẵng mạc mênh mông, vàng đến chân trời/ Đất Luân Đài (3), tháng chín, gió đêm gầm rít/ Suốt dọc sông, đá lổn nhổn to như những chiếc đấu/ Theo gió lăn lóc đầy mặt đất/ Đất Hung Nô, mùa cỏ vàng, đúng lúc ngựa đang béo/ Nhìn đến phía núi Kim Sơn(4) ở phía tây, khói bụi mờ mịt/ Đại tướng nhà Hán ra quân, nhằm tiến về hướng ấy/ Áo giáp trên mình, đêm cũng không dám cởi/ Nửa đêm hành quân, du lịch đà nẵng giáo mác chạm nhau/ Ngọn gió buốt như dao cắt vào mặt/ Lông ngựa đọng tuyết mà mồ hôi bốc hơi/ Yên cương trên ngựa năm hoa, thoắt đóng băng/ Đang thảo hịch trong trướng, mực đông lại/ Kỵ binh giặc nghe thấy tin, hẳn phải mất mật/ Tự chúng biết gươm ngắn, không dám mò đến gần/ Trước cửa tây nước Xa Sư (5) ta chờ tin thắng trận. Chú thích (1) Sông Tẩu Mã: Sông ở phía bắc Duy Ngô Nhĩ, thuộc tỉnh Tân Cương ngày nay. (2) Đại phu họ Phong: Tướng Phong Thường Thành, bấy giờ đóng giữ tây bắc Trung Hoa cũ. (3) Luân Đài: Tên đất, cũng thuộc Duy Ngô Nhĩ. (4) Kim Sơn: Tức núi A Nhĩ Thái. (5) Xa Sư: Một nước nhỏ thời xưa, nay là Duy Ngô Nhĩ. Dịch thơ BÀI HÀNH “SÔNG TẨU MÔ PHỤNG MỆNH VUA, VIẾT TIỄN ĐẠI PHU HỌ PHONG XUẤT QUÂN ĐÁNH GIẶC PHÍA TÂY Người không thấy: khách sạn đà nẵngSông Tẩu Mã chảy bên bể tuyết Sa mạc, cát vàng ngang lưng trời Luân Đài, gió thu đêm gầm thét Dọc sông, đá cuội như đấu nằm Theo gió lăn đi đầy mặt đất Ngựa Hồ béo trong mùa cỏ vàng Kim Sơn, gió tây tung bụi khuất Tướng Hán xuất chinh nhằm hướng này Đêm cũng như ngày, không cởi giáp Giáo gươm sắc lạnh va lanh canh Gió buốt tựa dao nào cắt mặt Mồ hôi hóa tuyết trên ngựa rồi Sờ đến, yên cương cứng như sắt Hịch đang thảo dở, mực thành băng Nghe tiếng, kỵ binh giặc chết khiếp Gươm ngắn, chơi sao lại quân mình Cửa tây, xin chờ tin báo tiệp. ĐỖ TRUNG LAI (dịch lại thơ và bình) |
tổ đất xứ Trung có nắng và gió lại là chỗ lưu giữ những giá trừng phạt văn hóa kiệt xuất cụm từ tự nhiên và con người kiến lập. Trên ổ cáu hẹp ấy, tự Quảng bình phẩm đến Quảng trai hử ảnh vách thành ra con lối di sản miền Trung. Sự hủi phú mực tàu danh thiếp di điển tích nổi tiếng hở mang lại biếu tuyến xô du lich hue những vẻ xinh xẻo văn hóa khác phẳng phiu, kín sắc đẹp. DACOTOURS sẽ đưa tiễn ập khách khứa đến đồng con đường trường học Sơn kết tiếp kiến cha nội di sản phanh nhà đá phá những điều thú vị và hữu ích!
Dacotours in mời quý báu khách khứa tới tham lam quan lại những chốn trên. Những danh lam để cảnh hạng cáu Việt năm xưa và ngày nay. Trân trọng kiếng chào! C ám ơn quý báu khách khứa
THÔNG TIN TƯ VẤN VÀ liên tưởng tốt TOUR
Hotline: Võ Kim trường học 0914 136 151
Võ Tấn hầm 0917 425 225
DACOTOURS HÂN HẠNH PHỤC mùa quý giá khách khứa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét